Dưới đây là thông tin chia sẻ về ai đặt tên nước là vạn xuân cho bạn
Từ đầu thời đại đồng thau, các bộ lạc người Việt đã định cư chắc chắn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc người Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, hàng chục bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở miền Việt Bắc. Tại nhiều nơi, người Lạc Việt và người Âu Việt sống xen kẽ với nhau, bên cạnh các thành phần dân cư khác.
Do nhu cầu trị thủy, nhu cầu chống ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế, văn hóa ngày càng gia tăng, các bộ lạc sinh sống gần gũi nhau có xu hướng tập hợp và thống nhất lại. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng nên nước Văn Lang, tự xưng vua, mà sử cũ gọi là Hùng Vương, con cháu ông nhiều đời về sau vẫn nối truyền danh hiệu đó.
Căn cứ vào các tài liệu sử học, có thể tạm xác định địa bàn nước Văn Lang tương ứng với vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta hiện nay cùng với một phần phía nam Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc). Thời gian tồn tại của nước Văn Lang khoảng từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên (TCN) đến thế kỷ 3 trước Công nguyên.
Năm 221 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng cho quân xâm lược đất của toàn bộ các nhóm người Việt. Thục Phán, thủ lĩnh liên minh các bộ lạc Âu Việt, được tôn làm người lãnh đạo cuộc chiến chống Tần. Năm 208 trước Công nguyên, quân Tần phải rút lui. Với uy thế của mình, Thục Phán xưng vương (An Dương Vương), liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc.
Xem thêm: Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn là ai? – Văn hóa tâm linh
Năm 179 trước Công nguyên, Triệu Đà – vua nước Nam Việt – tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng chiến của An Dương Vương thất bại. Suốt 7 thế kỷ tiếp đó, mặc dù các thế lực phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ, chia nước ta (Âu Lạc) thành nhiều châu, quận với những tên gọi khác lạ mà chúng đặt ra, nhưng vẫn không xóa nổi cái tên “Âu Lạc” trong ý thức, tình cảm và sinh hoạt thường ngày của nhân dân ta.
Mùa xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải phóng lãnh thổ. Tháng 2/544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế (lấy tên hiệu là Lý Nam Đế), đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.
Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu rồi lại rơi vào vòng đô hộ của các triều đình Trung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân bị vùi dập và chỉ được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên các sứ quân cát cứ, thống nhất quốc gia, lên ngôi Hoàng đế (lấy tên hiệu là Đinh Tiên Hoàng) và cho đổi quốc hiệu là Đại Cồ Việt (nước Việt lớn). Quốc hiệu này duy trì suốt thời Đinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý (1010-1053).
Xem thêm: Mách bạn 7 bệnh nhân 2009 là ai không nên bỏ lỡ
Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý (Lý Thái Tông) liền cho đổi tên nước là Đại Việt và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần.
Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly phế vua Trần Thiếu Đế, lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành Đại Ngu (“ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”). Quốc hiệu đó tồn tại cho đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).
Sau 10 năm kháng chiến (1418 – 1427), cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê lợi lên ngôi, đặt lại tên nước là Đại Việt (lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế). Quốc hiệu Đại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1801).
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, mở đầu thời Nguyễn và cho đổi tên nước là Việt Nam. Quốc hiệu Việt Nam được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao để trở thành chính thức vào năm 1804. Tuy nhiên, hai tiếng “Việt Nam” lại thấy xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử nước ta. Ngay từ cuối thế kỷ 14 đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (ghi chép về các đời ở Việt Nam) do Trạng nguyên Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ 15) nhiều lần nhắc đến hai chữ “Việt Nam”. Điều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), chẳng hạn ngay trong mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ văn đã có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16 – 17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Phòng, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh… Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan” (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ “Việt Nam” kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).
Xem thêm: Mách bạn về 14 vợ của ronaldo là ai đang được quan tâm
Cuối thời vua Minh Mạng, quốc hiệu được đổi thành Đại Nam (năm 1838). Dù vậy, hai tiếng “Việt Nam” vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội.
Ngày 19/8/1945, khi Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toàn ách thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946.
Suốt 30 năm tiếp theo, tuy đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, rồi chia cắt, hai tiếng “Việt Nam” vẫn được sử dụng phổ biến từ Bắc chí Nam và trở thành thân thiết, thiêng liêng đối với mọi tầng lớp nhân dân.
Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, non sông quy về một mối. Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa ViệtNam. Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa quốc hiệu Việt Nam trở thành chính thức cả về pháp lý lẫn trên thực tế.
Huy Hoàng
Top 11 ai đặt tên nước là vạn xuân được tổng hợp bởi TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ HÀ GIANG
Vạn xuân nghĩa là gì? – từ-điển.com
- Tác giả: xn--t-in-1ua7276b5ha.com
- Ngày đăng: 01/22/2023
- Đánh giá: 4.84 (619 vote)
- Tóm tắt: vạn xuân. van xuanco y nghia la : van chinh la mot ngan xuan chinh la mua xuan ly nam de dat ten nuoc la van …
Việc Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân có ý nghĩa gì?
- Tác giả: hoc247.net
- Ngày đăng: 01/17/2023
- Đánh giá: 4.51 (410 vote)
- Tóm tắt: – Khẳng định ý chí dành lại độc lập của dân tộc,mong đất nước mãi mãi thanh bình,yên vui,tươi đẹp như một vạn mùa xuân. bởi Phương Thảo 04/05/2021. Like (0) Báo …
Xem thêm: Hồng Tú là ai? Tiểu sử của quản lý, bạn tri kỉ của Huỳnh Lập – 2dep
Em có suy nghĩ gì về việc đặt tên nước là Vạn Xuân?
- Tác giả: loigiaihay.com
- Ngày đăng: 10/08/2022
- Đánh giá: 4.37 (428 vote)
- Tóm tắt: – Khẳng định ý chí giành độc lập của dân tộc, mong đất nước mãi mãi thanh bình, yên vui, tươi đẹp như một vạn mùa xuân. Loigiaihay.com. Chia sẻ. Bình luận. Chia …
Em có suy nghĩ gì về việc đặt tên nước là Vạn Xuân?
- Tác giả: timdapan.com
- Ngày đăng: 07/14/2022
- Đánh giá: 4.03 (214 vote)
- Tóm tắt: – Khẳng định ý chí giành độc lập của dân tộc, mong đất nước mãi mãi thanh bình, yên vui, tươi đẹp như một vạn mùa xuân. Mẹo Tìm đáp án nhanh nhất. Search google …
Ai là người đặt tên nước ta là Vạn Xuân? – Noron.vn
- Tác giả: noron.vn
- Ngày đăng: 04/02/2022
- Đánh giá: 3.98 (374 vote)
- Tóm tắt: Ai là người đặt tên nước ta là Vạn Xuân? Hỏi xoáy Đáp hay. Từ khóa: hỏi xoáy đáp hay. Đó là Lý Bí hay Lý Nam Đế. Trả lời. Dương Gia Thịnh.
Xem thêm: Mách bạn về 10+ đinh thu hiền là ai bạn không nên bỏ qua
Em có suy nghĩ gì về việc đặt tên nước là Vạn Xuân? – Người Kể Sử
- Tác giả: nguoikesu.com
- Ngày đăng: 11/01/2022
- Đánh giá: 3.79 (559 vote)
- Tóm tắt: Từ “Vạn Xuân” đặt tên cho nước thể hiện lòng mong muốn cho sự trường tồn của dân tộc, của đất nước. Khẳng định ý chí giành độc lập của dân tộc, …
Dựng nước Vạn Xuân lên ngôi hoàng đế

- Tác giả: cand.com.vn
- Ngày đăng: 03/16/2022
- Đánh giá: 3.49 (326 vote)
- Tóm tắt: Xuân Giáp Tý 544, Lý Bí lên ngôi vua, xưng là Lý Nam Đế, … đặt tên nước là Vạn Xuân với mong muốn giang sơn xã tắc Xuân mãi đến muôn đời.
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Năm 544, tháng giêng, Lý Bí tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiên Đức (đức trời), lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân thể hiện mong muốn rằng xã tắc truyền đến muôn đời. Ông đóng đô ở vùng cửa sông Tô Lịch (Hà Nội), dựng điện …
Em có suy nghĩ gì về việc đặt tên nước là Vạn Xuân?
- Tác giả: tech12h.com
- Ngày đăng: 06/17/2022
- Đánh giá: 3.37 (590 vote)
- Tóm tắt: Việc Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân thể hiện lòng mong muốn cho sự trường tồn của dân … mong đất nước mãi thanh bình, yên vui, tươi đẹp như một vạn xuân.
Xem thêm: Danh sách 7 đố ai đếm được lá rừng bạn nên biết hiện nay
Trình bày khởi nghĩa Lý Bí? Tại sao Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân?

- Tác giả: hoatieu.vn
- Ngày đăng: 11/24/2022
- Đánh giá: 3.19 (341 vote)
- Tóm tắt: Trên đây Hoatieu.vn đã trả lời câu hỏi Trình bày khởi nghĩa Lý Bí? Tại sao Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân? Mời các bạn tham khảo thêm các thông …
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Nhà nước Vạn Xuân, dù mới dựng, cũng bỏ tiền xây một ngôi chùa lớn, sau trở thành một trung tâm Phật giáo và Phật học lớn của Việt Nam. Đó là chùa Khai Quốc, tiền thân của chùa Trấn Quốc ở Hà Nội ngày nay. Ngay cái tên, “chùa Mở Nước” cũng đã hàm …
Lý Nam Đế – Vạn Xuân, cột mốc tự hào Đại Việt – Báo Đại Đoàn Kết

- Tác giả: daidoanket.vn
- Ngày đăng: 05/05/2022
- Đánh giá: 2.82 (58 vote)
- Tóm tắt: Lý Nam Đế là người đầu tiên trong lịch sử nước nhà xưng đế hiệu, cũng là người đầu tiên đặt tên nước là Vạn Xuân, đặt niên hiệu Thiên Đức…
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Nước ta khi ấy thuộc sự độ hộ của nhà Lương. Lương Vũ Đế – làm vua 47 năm, thọ trên 80 tuổi, là một bậc đa mưu vũ dũng, nam chinh bắc chiến và rất giỏi bang giao, nội trị, – từng nhiều lần đánh bại các nước Nam Tề, Tây Ngụy, Bắc Ngụy, Thổ Dục Hồn, …
Trình bày diễn biến cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập nước Vạn
- Tác giả: loga.vn
- Ngày đăng: 01/26/2023
- Đánh giá: 2.79 (98 vote)
- Tóm tắt: Vạn Xuân? Câu 2: Em có suy nghĩ gì về việc đặt tên nước là Vạn Xuân. Câu 3: Nước Cham-pa độc lập ra đời …